Giới thiệu về tôi

Hà Nội, Vietnam
Luật sư thành viên Đoàn luật sư thành phố Hà Nội. Trước khi làm Giám đốc công ty luật Long Hà là thành viên sáng lập của công ty luật hợp danh V.I.P

Thứ Tư, 9 tháng 9, 2009

CUỘC CHIẾN KHÔNG CÂN XỨNG.

Từ thực tiễn tham gia giải quyết các tranh chấp tại Toà án, Trọng tài. Chúng tôi thấy rằng: các tranh chấp liên quan đến Kinh doanh – Thương mại giữa các doanh nghiệp Việt Nam trong thời gian qua phần bất lợi bao giờ cũng được “Ưu tiên” dành cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ.
Đâu là nguyên nhân dẫn đến việc không tương xứng trong các tranh chấp thương mại giữa những doanh nghiệp vừa và nhỏ với các Tập đoàn, Tổng công ty, các tổ chức Tài chính – Ngân hàng.
Thứ nhất là: Hầu như chưa có doanh nghiệp vừa và nhỏ nào của Việt Nam hiện nay sử dụng bộ phận pháp chế chuyên nghiệp để thẩm định, tư vấn các Hợp đồng mà doanh nghiệp mình tham gia ký kết. Có một số ít doanh nghiệp vừa và nhỏ ý thức được tầm quan trọng của việc có sự tham gia tư vấn pháp luật của những người có chuyên môn. Và các doanh nghiệp này cũng tự xây dựng cho mình bộ phận pháp chế. Tuy nhiên, việc có bộ phận pháp chế vẫn mang tính hình thức. Những chuyên viên pháp lý giúp việc cho các doanh nghiệp này họ chỉ có lý thuyết về pháp luật tích luỹ được trong quá trình học ở trường đại học; còn kinh nghiệm thực tiễn về kinh doanh – thương mại, kỹ năng nghề nghiệp còn thiếu. Do đó khi tham gia tư vấn, đàm phán hợp đồng hoặc giải quyết các tranh chấp không tránh khỏi những hạn chế. Trong khi đó, các Tập đoàn, Tổng công ty, tổ chức Tài chính – Ngân hàng bao giờ cũng có bộ phận pháp chế chuyên nghiệp của doanh nghiệp; hoặc họ thuê các hãng luật, các chuyên gia pháp lý có uy tín, có kinh nghiệm để giúp cho bộ máy quản trị trong việc tư vấn, đàm phán, thương thảo, trước khi ký kết Hợp đồng kinh tế với các đối tác. Chính vì vậy, khi xảy ra các tranh chấp liên quan đến Hợp đồng thì phần lợi bao giờ cũng thuộc về các Tập đoàn, Tổng công ty, tổ chức Tài chính – Ngân hàng.
Thứ hai là: Do một thời gian dài nền kinh tế của chúng ta là nền kinh tế bao cấp “Kế hoạch hoá”. Doanh nghiệp không được tự chủ trong hoạt động SX-KD của mình. Sản xuất cái gì? Sản xuất như thế nào? Cho ai?; từ khâu sản xuất đến phân phối, tiêu dùng đều do Nhà nước điều hành. Chính từ những thói quen hình thành từ nhiều năm, qua nhiều thế hệ cho đến nay nó vẫn còn tồn tại và bị ảnh hưởng đến tư duy của những nhà quản lý doanh nghiệp trong hoạt động kinh doanh của mình.
Thứ ba là: Rất nhiều doanh nghiệp vừa và nhỏ trong quá trình hoạt động chưa xây dựng được văn hoá pháp lý cho doanh nghiệp của mình . Họ chỉ nghĩ đến việc làm sao doanh nghiệp của mình ký kết được càng nhiều hợp đồng càng tốt; còn việc có thực hiện được các cam kết hay hay nghĩa vụ hay không thì họ bỏ mặc; hoặc hợp đồng có bất lợi gì cho doanh nghiệp họ cũng không quan tâm. Nếu có vướng mắc đến đâu thì giải quyết đến đó. Chỉ đến khi các doanh nghiệp này bị khởi kiện tại Toà án, Trọng tài thì họ mới tìm đến công ty luật hoặc các luật sư. Có những hợp đồng; vụ kiện của các doanh nghiệp vừa và nhỏ ngay từ đầu nếu có sự tham gia tư vấn của các hãng luật hoặc của luật sư thì họ sẽ không bị thua thiệt. Chỉ đến khi bị thua kiện rồi các doanh nghiệp này mới ngộ ra thì sự việc đã rồi.
Thiết nghĩ, để giúp cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ tự bảo vệ mình trong thời kỳ hội nhập thì:
- Nhà nước cần quan tâm hơn nữa trong việc tuyên truyền phố biến kiến thức pháp luật cho các doanh nghiệp thông qua các hiệp hội doanh nghiệp, các CLB doanh nghiệp; trên các phương tiện thông tin đại chúng…
- Bản thân các doanh nghiệp cũng phải có ý thức tự bảo vệ mình bằng cách:
Một là: Cần phải xây dựng văn hoá doanh nghiệp; cụ thể là phải xây dựng cho mình một đội ngũ pháp chế chuyên nghiệp phải có bản lĩnh, đủ trình độ chuyên môn nghiệp vụ, có kỹ năng tham gia đàm phán và giải quyết các tranh chấp;
Hai là: Thông qua các công ty luật, văn phòng luật sư có uy tín để được cung cấp các dịch vụ pháp lý nhằm bảo vệ quyền lợi của mình trong hoạt động sản xuất kinh doanh.

VĂN HÓA DOANH NGHIỆP TRONG QUÁ TRÌNH HỘI NHẬP


Doanh nghiệp Việt Nam đón nhận Trọng tài như thế nào trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế trong giai đoạn hiện nay.
1.Doanh nghiệp Việt Nam biết đến Trọng tài để giải quyết các tranh chấp thương mại từ đầu những năm 60 của thế kỷ trước, khi mà Việt Nam thành lập Hội đồng Trọng tài Ngoại thương năm 1963 và Hội đồng Trọng tài Hàng Hải 1964 bên cạnh Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam. Đến năm 1993 hai tổ chức trọng tài này được hợp nhất thành Trung tâm Trọng tài Quốc tế Việt Nan (VIAC) và tồn tại cho đến ngày nay.
Trong suốt thập kỷ 60, 70 và 80 của thế kỷ 20 thương mại quốc tế của Việt Nam chủ yếu được tiến hành bởi các doanh nghiệp Nhà nước Việt Nam với các đối tác nước ngoài cũng là những doanh nghiệp của các nước thuộc phe XHCN trong khuôn khổ Hội đồng Tưong trợ Kinh tế. Việc tranh chấp thương mại phát sinh từ các hợp đồng mua bán, trao đổi hàng hóa, một loại Hiệp định thương mại song phương mà thời đó các nước trong phe XHCN ký kết với nhau. Việc thi hành phán quyết của trọng tài cũng được thực hiện thông qua Hiệp định tương trợ tư pháp song phương giữa các quốc gia. Trên thực tế các tranh chấp đều được các bên giải quyết chủ yếu thông qua thương lượng, hòa giải mà hầu như không sử dụng đến tố tụng Trọng tài theo đúng nghĩa của nó.
2. Hàng loạt các nước Đông Âu nằm trong phe XHCN và Liên xô bị sụp đổ sau thời kỳ chiến tranh lạnh. Từ năm 1992, khi mà Hiến Pháp Việt Nam được sửa đổi. Nhà nước Việt Nam đã thừa nhận nền kinh tế thị trường theo định hướng XHCN, ngoài thành phần kinh tế Quốc doanh và HTX thì các thành phần kinh tế khác cũng được Nhà nước thừa nhận. Ngày càng nhiều các doanh nghiệp tư nhân, công ty cổ phần, công ty TNHH ra đời. Bên cạnh đó, đầu tư nước ngoài cũng phát triển mạnh góp phần phát triển thương mại và đầu tư ở Việt Nam.
Trước sự phát triển kinh tế không ngừng, cùng với việc Việt Nam hội nhập ngày càng sâu rộng vào nền kinh tế thế giới và nhất là trước ngưỡng cửa Việt Nam gia nhập tổ chức Thương mại thế giới (WTO) thì vấn đề giải quyết tranh chấp thương mại quốc tế bằng trọng tài thu hút được sự quan tâm thực sự của các Doanh nghiệp Việt Nam.
3. Một hợp đồng thương mại quốc tế thường khác hợp đồng thương mại trong nước ở những điểm sau: một là chọn luật áp dụng; hai là chọn cơ quan giải quyết tranh chấp.
Như vậy việc chọn luật nào để điều chỉnh hợp đồng thương mại quốc tế và chọn Trọng tài nào để giải quyết các tranh chấp là tùy thuộc vào sự thỏa thuận giữa các bên, nhưng thông thường cho thấy:
Thứ nhất: Những hợp đồng lớn hoặc hợp đồng mà phía đối tác nước ngoài bao giờ cũng muốn chọn luật nước ngoài hay luật quốc tế làm luật áp dụng và một tổ chức trọng tài Quốc tế như Tòa án Trọng tài Quốc tế của Phòng Thương mại Quốc tế (ICC), hoặc các tổ chức trọng tài quốc tế có uy tín như: Tòa án Trọng tài Anh, Trọng tài Singapore, Trung tâm Trọng tài HongKong….. để xét xử các tranh chấp phát sinh từ hợp đồng.
Thứ hai: Đối với các hợp đồng nhỏ, vừa. Để tiện lợi, đỡ tốn kém chi phí kiện tụng thì các bên thường lựa chọn Trọng tài Việt Nam (Trung tâm Trọng tài Quốc tế Việt Nam; Trung tâm Trọng tài Thái Bình Dương….) làm nơi xét xử tranh chấp phát sinh và đôi khi các bên lựa chọn luật Việt Nam làm luật áp dụng.
4. Doanh nghiệp Việt Nam nên lựa chọn Tòa án hay Trọng tài để giải quyết các tranh chấp liên quan đến thương mại quốc tế. Nếu chọn Trọng tài trong điều khoản giải quyết tranh chấp thì chọn Trọng tài nào? Điều đó tùy thuộc vào vị trí của họ trong tranh chấp thương mại: họ là nguyên đơn hay là bị đơn. Văn hóa kinh doanh, văn hóa pháp lý doanh nghiệp hay các ứng xử của họ càng thể hiện rõ hơn khi họ ở vào vị trí của bị đơn.
Từ thực tiễn giải quyết các tranh chấp thương mại, chúng tôi sẽ làm rõ quan hệ giữa doanh nghiệp Việt Nam với Trọng tài bằng một số phân tích dưới đây:
4.1 Trường hợp doanh nghiệp Việt Nam là Nguyên đơn.
- Trong trường hợp doanh nghiệp Việt Nam tôn trọng cam kết hợp đồng, không vi phạm nghĩa vụ hợp đồng trong khi đối tác nước ngoài vi phạm hợp đồng và phải chịu trách nhiệm hợp đồng, tức là phải đền bù thiệt hại cho bên doanh nghiệp Việt Nam thì bao giờ doanh nghiệp Việt Nam cũng đón nhận trọng tài một cách tích cực. Đây là một cách ứng xử bình thường trong thương mại quốc tế.
Ở vị trí nguyên đơn, doanh nghiệp Việt Nam tham gia đầy đủ các bước tố tụng trọng tài ngay cả khi trọng tài đó tiến hành ở nước ngoài. Vì việc theo đuổi tố tụng trọng tài phù hợp với lợi ích của họ, có lợi cho họ.
- Phán quyết của trọng tài được tuyên bởi các trọng tài trong nước hay nước ngoài, nhìn chung đều được thực hiện thuận lợi hoặc bằng sự tự nguyện thi hành phán quyết của bị đơn (Doanh nghiệp nước ngoài) hoặc bằng cưỡng chế của Tòa án nước ngoài khi tòa án này công nhận và cho thi hành phán quyết trọng tài buộc bị đơn nước ngoài phải trả tiền đền bù thiệt hại cho doanh nghiệp Việt Nam thắng kiện. Điều đó cho thấy rằng sự hợp tác hữu hiệu giữa các quốc gia thành viên của Công ước New York 1958 (Công ước này có trên 150 nước thành viên tham gia, trong đó có Việt Nam) về công nhận và thi hành phán quyết trọng tài nước ngoài.
4.2 Trường hợp doanh nghiệp Việt Nam là Bị đơn.
- Trong trường hợp doanh nghiệp Việt Nam vi phạm hợp đồng, không thực hiện các nghĩa vụ quy định trong hợp đồng và họ ở vào vị trí bị đơn trong tố tụng trọng tài thì có thể họ sẽ có những cách ứng xử như sau:
Nếu trọng tài được tiến hành ở Việt Nam thì doanh nghiệp Việt Nam còn tham gia tố tụng trọng tài vì chi phí theo kiện thấp (Nếu trọng tài được tiến hành ở nước ngoài thì chi phí rất tốn kém).
Ngược lại, nếu trọng tài tiến hành ở nước ngoài thì doanh nghiệp Việt Nam hầu như không có động thái tích cực đáng kể nào để tham gia tố tụng như: Không chỉ định trọng tài viên, không gửi văn bản trả lời trọng tài, không gửi bài bảo vệ (Luận cứ bảo vệ quyền lợi của mình), không đi dự phiên họp giải quyết trọng tài, và khi phán quyết trọng tài được tuyên vắng mặt họ thì họ cũng không tự nguyện thi hành phán quyết.
- Việc bị đơn không tham gia tố tụng trọng tài, không tự nguyện thi hành quyết định trọng tài cũng là điều dễ hiểu, điều này đôi khi cũng xảy ra đối với bị đơn nước ngoài. Nhưng điều đáng nói là Tòa án nước ngoài nơi có trụ sở của bị đơn nước ngoài bao giờ cũng tôn trọng Công ước New York 1958 và họ xem xét một cách thuận lợi việc công nhận phán quyết trọng tài của nước thứ ba và buộc bị đơn nước ngoài phải thi hành phán quyết. Điều đó cho thấy sự hỗ trợ của Tòa án trong việc đảm bảo thi hành phán quyết trọng, đem lại công lý cho nguyên đơn là doanh nghiệp Việt Nam thắng kiện.
- Mặc dù Việt Nam đã gia nhập Công ước New York 1958 nhưng trên thực tế Tòa án Việt Nam vẫn chưa tạo điều kiện cũng như xem xét một cách thuận lợi việc công nhận và cho thi hành phán quyết trọng tài nước ngoài buộc bị đơn là các doanh nghiệp Việt Nam thua kiện phải bồi thường cho nguyên đơn là các doanh nghiệp phía nước ngoài. Cho đến nay Tòa án Việt nam còn dựa vào những lý do không xác đáng để từ chối việc công nhận các phán quyết của trọng tài nước ngoài cho dù đó là phán quyết của ICC.
5. Thay lời kết:
Doanh nghiệp Việt Nam cần thận trọng trong đàm phán, ký kết hợp đồng thương mại quốc tế. Khi đã ký kết thì doanh nghiệp Việt nam cần tôn trọng cam kết bằng việc thực hiện đầy đủ các nghĩa vụ theo hợp đồng. Không nên vì giá cả tăng lên hay giảm xuống sau khi ký hợp đồng mà mình với tư cách là người bán hoặc với tư cách là người mua từ chối việc giao hàng, nhận hàng hoặc từ chối thanh toán để dẫn đến tranh chấp không đáng có.
Điều này cũng xảy ra đối với thương nhân nước ngoài. Tuy nhiên hiện tượng này rất hạn chế đối với thương nhân nước ngoài. Việc các thương nhân nước ngoài khi họ từ chối giao, nhận hàng hoặc từ chối thanh toán thường là họ có đủ căn cứ pháp lý trên cơ sở tôn trọng đạo đức kinh doanh.
Doanh nghiệp Việt Nam không nên chỉ tham gia tố tụng trọng tài khi mình là nguyên đơn mà tham gia một cách đầy đủ ngay cả khi mình là bị đơn. Khi có phán quyết của trọng tài buộc mình phải trả tiền đền bù thiệt hại cho nguyên đơn nước ngoài thắng kiện thì mình cũng nên tự nguyện thi hành phán quyết, không nên nêu ra những lý do này hay lý do khác để từ chối thi hành phán quyết cho dù lý do đó nhất thời được Tòa án Việt Nam chấp nhận để từ chối công nhận các phán quyết trọng tài nước ngoài. Điều đó làm ảnh hưởng đến hình ảnh, uy tín của con người Việt Nam, doanh nghiệp Việt Nam trên trường Quốc tế. Tránh để tình trạng người nước ngoài hay doanh nghiệp nước ngoài khi họ làm ăn với chúng ta họ cho rằng sự tôn trọng pháp luật của các doanh nghiệp Việt Nam thấp hoặc không có văn hóa doanh nghiệp.



Thứ Năm, 3 tháng 9, 2009

LÃI SUẤT

BÀN VỀ LÃI SUẤT TRONG HẠN, LÃI QUÁ HẠN, LÃI PHẠT TRONG
HỢP ĐỒNG TÍN DỤNG DƯỚI CÁC QUY ĐỊNH CỦA BỘ LUẬT DÂN SỰ
Trong thời gian qua, các vụ tranh chấp liên quan đến Hợp đồng Tín dụng (HĐTD) tại Tòa án ngày càng tăng. Nhiều HĐTD bị Tòa án tuyên vô hiệu, hoặc một điều khoản của HĐTD bị vô hiệu (Chủ yếu là điều khoản về Lãi suất, Lãi suất quá hạn và Lãi phạt).
Trên thực tế, những HĐTD bị vô hiệu về điều khoản Lãi suất, Lãi quá hạn, Lãi phạt mà chưa xảy ra tranh chấp hoặc không được đưa ra phân xử ở Tòa án mà các bên vẫn tiếp tục thực hiện còn rất nhiều. Một trong những lý do, đó là Ngân hàng cố tình “lờ” đi điều khoản vô hiệu; hoặc do bộ phận nghiệp vụ của Ngân hàng còn non kém; do Bên đi vay bị phụ thuộc vào ngân hàng nên họ không quan tâm đến điều khoản này, và hoặc Bên đi vay cũng không biết những quy định của pháp luật về cho vay tài sản, lãi suất cho nên họ mặc nhiên chấp nhận điều khoản vô hiệu này.
Để giúp cho doanh nghiệp, cá nhân những người có nhu cầu vay vốn tại các tổ chức tín dụng hiểu được về lãi suất; cách tính lãi suất quá hạn, lãi phạt trong HĐTD theo đúng các quy định của pháp luật, tôi xin giới thiệu với bạn đọc một số vấn đề liên quan đến lãi suất.
Lãi suất là gì?
Theo Từ điển Tiếng Việt (Năm 2000) của Viện Ngôn ngữ học định nghĩa: “Lãi suất (d). Là tỷ lệ phần trăm giữa lãi so với vốn”.
Hiểu theo lĩnh vực tài chính ngân hàng thì: Lãi suất là giá mà người vay phải trả cho người cho vay để được sử dụng một khoản tiền nhất định trong một thời gian nhất định. Lãi suất cao hay thấp là do thỏa thuận giữa người đi vay và người cho vay. Tuy nhiên lãi suất không phải muốn cao bao nhiêu cũng được mà nó bị khống chế bởi các quy định của pháp luật (nói cách khác là nó có tỷ lệ nhất định do Nhà nước quy định trong từng thời kỳ).
1. Quy định của pháp luật về “Lãi suất”:
1.1 Quy định của Bộ luật Dân sự 2005 về lãi suất:
- Điều 474. Nghĩa vụ trả nợ của bên vay.
….
5. Trong trường hợp vay có lãi mà khi đến hạn bên vay không trả hoặc trả không đầy đủ thì bên vay phải trả lãi trên nợ gốc và lãi nợ quá hạn theo lãi suất cơ bản do Ngân hàng Nhà nước công bố tương ứng với thời hạn vay tại thời điểm trả nợ.
- Điều 476. Lãi suất
1. Lãi suất vay do các bên thỏa thuận nhưng không được vượt quá 150% của lãi suất cơ bản do Ngân hàng Nhà nước công bố đối với loại cho vay tương ứng
2. Trong trường hợp các bên có thỏa thuận về việc trả lãi, nhưng không xác định rõ lãi suất hoặc có tranh chấp về lãi suất thì áp dụng lãi suất cơ bản do Ngân hàng Nhà nước (NHNN) công bố tương ứng với thời hạn vay tại thời điẻm trả nợ.

1.2 Một số quy định về Lãi suất của Ngân hàng Nhà nước thời gian qua:
- Quyết định 241/2000/QĐ-NHNN ngày 02/8/2000 của Ngân hàng Nhà nước về việc thay đổi cơ chế điều hành lãi suất cho vay của Tổ chức tín dụng (TCTD) đối với khách hàng. Theo đó, cơ chế trần lãi suất cho vay được thay thế bằng cơ chế điều hành lãi suất cơ bản với nội dung: TCTD ấn định lãi suất cho vay trên cơ sở lãi suất cơ bản do Ngân hàng Nhà nước công bố theo nguyên tắc lãi suất cho vay không vượt quá mức lãi suất cơ bản + biên độ do Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định trong từng thời kỳ. NHNN công bố lãi suất cơ bản dựa trên cơ sở tham khảo mức lãi suất cho vay thương mại đối với khách hàng tốt nhất của 04 Ngân hàng thương mại (Bao gồm:02 NHTM Nhà nước và 02 NHTM Cổ phần). Lãi suất cơ bản + biên độ được công bố định kỳ hàng tháng, trong trường hợp cần thiết thì NHNN sẽ công bố điều chỉnh kịp thời.
- Quyết định 546/2002/QĐ-NHNN ngày 30/5/2002 của Ngân hàng Nhà nước quy định: Thực hiện cơ chế lãi suất thỏa thuận trong hoạt động tín dụng. TCTD xác định lãi suất cho vay trên cơ sở cung cầu vốn thị trường và mức độ tín nhiệm đối với khách hàng là cá nhân, pháp nhân. NHNN tiếp tục công bố lãi suất cơ bản cho vay. Như vậy, tại quyết định này NHNN đã bãi bỏ quy định các TCTD phải ấn định lãi suất cho vay theo lãi suất cơ bản + với biên độ do NHNN công bố. Đây là cơ chế lãi suất thỏa thuận, nó giúp cho các TCTD linh hoạt và tự chủ hơn trong hoạt động kinh doanh của mình trong suốt một thời gian dài (Từ năm 2002 đến 2008). Tuy nhiên, do tác động của cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới, hàng loạt các tổ chức Tài chính-Ngân hàng của Hoa Kỳ và các nước có nền kinh tế mạnh trên thế giới sụp đổ và Việt Nam cũng không nằm ngoài cuộc khủng hoảng đó. Từ đầu năm 2008, tình hình huy động vốn của các TCTD gặp phải khó khăn một số ngân hàng thương mại bắt đầu có dấu hiệu suy giảm nghiêm trọng khả năng thanh khoản. Vì vậy, hàng loạt các ngân hàng thương mại đua nhau tăng lãi suất huy động tiền gửi, từ đó lãi suất cho vay cũng tăng theo, và cuộc đua tăng lãi suất có vẻ như không có điểm dừng.
Ngày 16/5/2008, NHNN đã ban hành Quyết định số 16/2008/QĐ-NHNN, quy định việc điều hành lãi suất cơ bản bằng đồng Việt Nam làm cơ sở cho các TCTD ấn định lãi suất kinh doanh. Theo đó, các TCTD ấn định mức lãi suất huy động, lãi suất cho vay bằng đồng Việt nam không được vượt quá 150% lãi suất cơ bản do NHNN công bố và quyết định này thay thế quyết định 546/2002.
2. Quy định về Lãi suất trong hạn, lãi suất quá hạn và lãi phạt trong các hợp đồng tín dụng hiện nay: Ngân hàng với tư cách là một tổ chức kinh doanh tiền tệ. Vì vậy ngân hàng vừa là người đi vay đồng thời cũng là người cho vay. Các ngân hàng dựa vào mức độ tín nhiệm, khả năng tài chính, phương án kinh doanh của người vay có thể chấp nhận cho người vay hưởng một mức lãi suất ưu đãi. Ngược lại, nếu khách hàng quản lý kém, ngân hàng đánh giá không cao mức độ tín nhiệm của người đi vay với ngân hàng, những khoản vay theo nhận định của ngân hàng có nhiều rủi ro thì phía ngân hàng có thể sẽ ấn định mức lãi suất cho vay cao hơn. Đồng thời để ràng buộc trách nhiệm của khách hàng trong việc trả nợ các khoản vay đúng hạn thì trong HĐTD bao giờ các ngân hàng cũng đưa ra một điều khoản “Lãi suất quá hạn; Lãi suất phạt do chậm trả lãi”. Mức lãi suất quá hạn, lãi suất phạt bao giờ cũng lớn hơn lãi suất trong hạn.
Đã bao giờ bạn phải đi vay tài sản chưa?
Bạn đã nhìn thấy một điều khoản nào như ví dụ dưới đây trong HĐTD mà mình ký kết với ngân hàng. Bạn hiểu những điều thỏa thuận đó như thế nào khi có tranh chấp xảy ra.
Ví dụ 1:
Điều 3. Phương thức tính lãi:
- Lãi suất vay 1.0% /tháng + Biên độ 0.27% /tháng (mức lãi suất này được ngân hàng tính từ ngày giải ngân lần đầu và được điều chỉnh 01 năm/1lần vào ngày 02/01 hằng năm….).
- Lãi suất quá hạn bằng 1,5 lần lãi suất vay trong hạn.
- Lãi suất phạt: bằng 1,5 lần lãi suất vay trong hạn xác định tại thời điểm chuyển quá hạn trên phần lãi vay chậm trả và số ngày thực tế chậm thanh toán.
Ví dụ 2:
Điều 5. Lãi suất – Phí:
- Lãi vay trong hạn: lãi suất vay ngày hoặc tháng theo lãi suất cho vay đối với tổ chức, cá nhân được ngân hàng công bố trên Website hoặc thông báo bằng văn bản.
- Lãi quá hạn là: 150% lãi suất trong hạn. Bên được cấp tín dụng không trả nợ đúng hạn, lãi suất nợ quá hạn được tính theo quy định của hợp đồng này.
- Lãi phạt = 150% lãi suất vay trong hạn x số ngày chậm trả x số tiền lãi chậm trả.
Như vậy, khi HĐTD có tranh chấp xảy ra thì ngân hàng sẽ tính toán các khoản lãi phải trả bao gồm: lãi vay trong hạn trên nợ gốc, lãi suất quá hạn, lãi phạt; đưa ra yêu cầu buộc người vay phải trả các khoản lãi trên. Chúng tôi sẽ phân tích vấn đề trên dưới góc độ pháp lý khi giải quyết tranh chấp:
- Trước ngày Quyết định 16/2008 của NHNN có hiệu lực, nghĩa là khi lãi suất mà các TCTD đang áp dụng cho các HĐTD được thực hiện theo cơ chế thỏa thuận theo quyết định 546/2002/QĐ-NHNN cho nên hầu hết các TCTD đều không quan tâm đến quy định của Bộ luật Dân sự 2005 khi ấn định lãi suất cho vay. Vì vậy có sự không thống nhất giữa quy định của Bộ luật Dân sự với Luật NHNN, Luật các TCTD và các quyết định của NHNN nên trong thời gian qua đã xảy ra nhiều trường hợp lãi suất cho vay “cao” hơn rất nhiều so với mức 150% lãi suất cơ bản (có thời điểm lãi suất cơ bản NHNN công bố là 8%/năm nhưng lãi suất cho vay từ khoảng 19%-21% tùy từng ngân hàng). Mức lãi suất này đã vượt quá mức 150% được quy định tại Bộ luật Dân sự (Điều 476) và hầu như tất cả các ngân hàng đều vi phạm quy định nêu trên. Hậu quả pháp lý xảy ra là gì?
2.1 Trường hợp HĐTD có điều khoản Lãi suất lớn hơn 150% lãi suất cơ bản:
Trường hợp này xảy ra khá phổ biến trước ngày 19/5/2008, ngày mà Quyết định 16/2002 của NHNN có hiệu lực. Theo quy định của Bộ luật Dân sự (BLDS) nếu Hợp đồng vi phạm điều cấm của pháp luật thì Hợp đồng đó bị vô hiệu (Điều 122; 127-Bộ luật DS). Trong trường hợp này thì HĐTD bị vô hiệu do vi phạm điều cấm và hậu quả pháp lý của hợp đồng vô hiệu là các bên phải trả cho nhau những gì đã nhận (Khoản 2 Điều 137 BLDS). Tuy nhiên, Điều 135 Bộ luật Dân sự cũng quy định về Giao dịch dân sự vô hiệu từng phần: “ Giao dịch dân sự vô hiệu từng phần khi một phần của giao dịch vô hiệu nhưng không ảnh hưởng đến hiệu lực của phần còn lại của giao dịch”. HĐTD là một loại hợp đồng song vụ có nhiều điều khoản, trong đó có nhiều quyền và nghĩa vụ của các bên, và lãi suất chính là một điều khoản đó. Vì vậy, khi lãi suất ghi trong hợp đồng cao hơn quy định trong Bộ luật Dân sự thì chỉ có điều khoản lãi suất vô hiệu, các điều khoản còn lại của hợp đồng vẫn còn hiệu lực. Trong trường hợp này các bên có thể suy diễn theo cách riêng của mình:
Cách thứ nhất là trên góc độ của người đi vay sẽ cho rằng HĐTD đã vi phạm điều cấm của pháp luật (theo Điều 122; Điều 476 - Bộ luật Dân sự) thì HĐTD này vô hiệu. Vì HĐTD là một loại hợp đồng đặc biệt, trong đó điều khoản lãi suất là điều khoản hết sức quan trọng (nó là mục đích, quyền lợi cao nhất mà bên vay mong muốn và có được). Do đó hậu quả mà ngân hàng phải nhận không khác gì toàn bộ HĐTD bị vô hiệu nghĩa là “các bên khôi phục lại tình trạng ban đầu” điều khoản lãi suất, thì ngân hàng sẽ không nhận được lãi.
Cách thứ hai là: Nếu được giải quyết tại Tòa án, thì tùy từng trường hợp vô hiệu cụ thể, Tòa án sẽ xử lý và xem xét lỗi cụ thể của các bên để ra phán quyết phù hợp với quy định của pháp luật. Bởi, theo quy định của Bộ luật Dân sự thì bên nào có lỗi trong việc làm cho hợp đồng dân sự vô hiệu thì bên đó phải chịu trách nhiệm và phải bồi thường thiệt hại. Trên thực tế lãi suất do ngân hàng và khách hàng vay tự thỏa thuận, nghĩa là cả ngân hàng và khách hàng đều có lỗi (lỗi hỗn hợp) nên trong trường hợp này đương nhiên ngân hàng phải chịu thiệt hại là không thu được lãi hoặc không thu đủ lãi.
2.2 Trường hợp HĐTD có điều khoản lãi suất nhỏ hơn 150% lãi suất cơ bản, nhưng lãi suất quá hạn lớn hơn 150% lãi suất cơ bản: Đây là trường hợp sẽ xảy ra khi Quyết định 16 của NHNN có hiệu lực kể từ ngày19/5/2008. Các ngân hàng sẽ phải ấn định mức lãi suất không được vượt quá 150% lãi suất cơ bản do NHNN công bố điều này thì đa số các ngân hàng có thể thực hiện được. Tuy nhiên, với điều khoản lãi suất quá hạn trong HĐTD mà các ngân hàng quy định thì vẫn có khả năng vô hiệu mặc dù lãi suất trong hạn có thể bằng hoặc thấp hơn 150% lãi suất cơ bản. Ta có thể xem xét ví dụ 2 nêu trên:
- Ngày 1/2/2009 anh A ký HĐTD với ngân hàng X vay một khoản tiền 100 triệu đồng. Trong HĐTD có điều khoản “Lãi suất trong hạn, lãi quá hạn” (như ví dụ 2). Tại thời điểm vay, mức lãi suất cơ bản do Ngân hàng Nhà nước Việt Nam công bố là 7%/năm. Ngân hàng X sẽ phải áp dụng mức lãi suất trong hạn cho HĐTD trên ở mức thấp hơn hoặ bằng 10,5% /năm.
- Giả sử, mức lãi suất trong hạn được áp dụng cho HĐTD là 9,5%/năm. Nếu đến hạn anh A không trả được nợ thì ngân hàng sẽ chuyển số tiền nợ gốc của anh A sang dư nợ quá hạn và tính lãi quá hạn. Trong trường hợp này lãi quá hạn theo thỏa thuận trong HĐTD là 150% lãi suất trong hạn (Ví dụ 2 về lãi quá hạn) ta sẽ có mức tính lãi quá hạn như sau: 9,5% /năm x 150% = 14,25% /năm.
Như vậy, nếu HĐTD này xảy ra tranh chấp, một trong các bên khởi kiện ra Tòa án có thẩm quyền giải quyết thì sẽ bị Tòa án tuyên điều khoản lãi suất trong hạn, lãi suất quá hạn này vô hiệu một phần (phần tính lãi suất quá hạn).

* Nguyên nhân của hiện tượng này là do quy định của pháp luật chưa thống nhất dẫn đến nhiều cách hiểu khác nhau giữa các tổ chức tín dụng, cũng như giữa người đi vay với ngân hàng về điều khoản lãi suất, lãi quá hạn trong Hợp động tín dụng. Thiết nghĩ, trong thời gian tới Nhà nước cần phải sửa đổi các quy định của pháp luật liên quan tới hoạt động tín dụng sao cho thống nhất về lãi suất, có như vậy mới tạo điều kiện thuận lợi cho người đi vay cũng như người cho vay tài sản.

Thứ Ba, 1 tháng 9, 2009

GIỚI THIỆU CÔNG TY LUẬT LONG HA

Hãng luật LONG HÀ là một công ty tư vấn luật hàng đầu tại Việt Nam, với đội ngũ luật sư, chuyên gia pháp lý, chuyên gia tư vấn đầu tư, quản lý kinh doanh có trình độ cao, năng động, sáng tạo, có kinh nghiệm nhiều năm trong cung cấp các dịch vụ tư vấn pháp luật, tư vấn đầu tư, tư vấn quản lý kinh doanh cho các nhà đầu tư trong và ngoài nước.
Mục tiêu của LONG HÀ là luôn tạo ra những thay đổi tích cực trong hoạt động quản lý, đầu tư kinh doanh của các doanh nghiệp. Hỗ trợ doanh nghiệp nâng cao hiệu quả trong hoạt động sản xuất, kinh doanh để doanh nghiệp luôn luôn phát triển, tăng cường vị thế cạnh tranh trong cơ chế thị trường.Thông qua việc cung cấp các dịch vụ tư vấn pháp lý, quản lý chuyên nghiệp và toàn diện, các giải pháp thông minh, sáng tạo, đa dạng để phục vụ khách hàng trong suốt quá trình hoạt động của mình.
Phương châm hành động của hãng luật LONG HÀ là: “VÌ LỢI ÍCH TỐI ƯU VÀ THÀNH CÔNG” của khách hàng.
Hãng luật LONG HÀ đã hỗ trợ thành công nhiều nhà đầu tư trong nước, nhà đầu tư nước ngoài trong việc triển khai các dự án đầu tư, xử lý các vấn đề liên quan đến chính sách thuế, tài chính, pháp luật, lao động, chuyển giao công nghệ và giải quyết các tranh chấp liên quan. LONG HÀ hiện có mạng lưới khách hàng rộng lớn đang sử dụng thường xuyên các dịch vụ tư vấn chuyên nghiệp do LONG HÀ cung cấp.
LONG HÀ là một hãng luật cung cấp các dịch vụ pháp lý một cách chuyên nghiệp nhất tại Việt Nam, luôn đáp ứng các nhu cầu quản lý, kinh doanh cho các doanh nghiệp. Bên cạnh đó, LONG HÀ đang tiếp tục mở rộng sự hợp tác với các chuyên gia tư vấn cao cấp trong các ngành và lĩnh vực khác nhau; phát triển mối quan hệ với các Bộ, Ban ngành, các cơ quan quản lý Nhà nước ở Trung ương, địa phương đặc biệt là các cơ quan quản lý đầu tư và thương mại nhằm không ngừng nâng cao chất lượng dịch vụ.
LONG HÀ cam kết cung cấp cho doanh nghiệp những giải pháp mang tính toàn diện, hiệu quả, sáng tạo đảm bảo tính chuyên môn cao và dịch vụ chuyên nghiệp.
LONG HÀ hy vọng trở thành nhà tư vấn tin cậy và lâu dài của Quý Khách hàng.

Trân trọng!
Giám đốc công ty luật Long Hà:
Luật sư Phạm Quốc Bình
Mọi thông tin xin liên hệ:
Công ty luật Long Hà.
Địa chỉ: 309 Thanh Nhàn – Hà Nội.
Điện thoại: 0913.38.27.38
Email: luatsuvip@yahoo.com.vn; lhlawyer@ymail.com